Sự khác biệt và các cải biến County (lớp tàu tuần dương)

Lớp phụ Kent

Tập tin:HMS Cumberland profile post 1943.JPGSơ đồ mô tả chiếc HMS Cumberland thuộc lớp Kent vào giai đoạn sau năm 1943, khi hầm chứa máy bay được tháo dỡ, thay bằng một cấu trúc thượng tầng dạng thanh giằng mang các bộ radar và điều khiển hỏa lực. Giống như Suffolk, nó được cắt bỏ phía đuôi so với thiết kế ban đầu để tiết giảm trọng lượng.

Bảy chiếc đầu tiên trong lớp: Berwick, Cornwall, Cumberland, KentSuffolk của Hải quân Hoàng gia cùng AustraliaCanberra của Hải quân Hoàng gia Australia hình thành nên lớp Kent. Tất cả đều được đặt hàng vào năm 1924 và đưa ra hoạt động vào năm 1928. Người ta nhanh chóng nhận ra cần phải nâng thêm chiều cao con tàu khoảng 4,5 m (15 ft) để khói thải không che khuất cấu trúc thượng tầng phía sau. Ống khói của các con tàu Australia và Canberra của Australia còn được nâng thêm 0,9 m (3 ft). Từ năm 1930 đến năm 1933 máy bay và máy phóng được bổ sung, cũng như các bộ điều khiển hỏa lực góc cao HACS cho các khẩu pháo 102 mm (4 inch). Kent được bổ sung thêm một cặp pháo 102 mm (4 inch) vào năm 1934, và nó cùng với Berwick và Cornwall đều được bổ sung một cặp súng máy Vickers 12,7 mm (0,50) bố trí phía trước ống khói trước.

Vào giữa những năm 1930, đến lúc lớp Kent cần được hiện đại hóa. Tuy nhiên, chỉ còn lại một ít trọng lượng dành cho các nhà thiết kế; chúng ở trong khoảng từ 150 đến 250 tấn bên dưới giới hạn của hiệp ước, và người ta ước lượng có thêm khoảng 200 tấn được tiết kiệm từ nhiều biện pháp giảm trọng lượng khác nhau.[2] Một đai giáp rộng 1,8 m (6 ft), dày 114 mm (4,5 inch), được bổ sung phía giữa tàu, kéo dài từ sàn tàu bọc thép đến 0,3 m (1 ft) bên dưới mực nước. Cumberland và Suffolk có cấu trúc thượng tầng phía sau được san bằng thay thế bằng một sàn chứa lớn dành cho hai máy bay và một máy phóng cố định chéo qua con tàu. Một cần cẩu được bố trí bên mạn tàu cạnh ống khói phía sau, trong khi các vị trí dẫn đường và kiểm soát được tái bố trí bên trên nóc sàn chứa. Những khẩu 2 pounder nòng đơn được tháo dỡ thay bằng tháp pháo Mark VII bốn nòng bổ sung hai bên cầu tàu. Các khẩu đội 102 mm (4 inch) được bố trí lại, và cặp bệ pháo Mark XVI sau cùng được thay thế bằng bệ Mark XIX nòng đôi. Để giữ cho trọng lượng bên trong giới hạn cho phép, lườn tàu được cắt bớt một sàn phía sau tháp pháo Y. Berwick và Cornwall cũng được nâng cấp tương tự, nhưng do có sẵn nhiều trọng lượng dư thừa, lườn tàu đã không bị cắt; tất cả bốn tháp pháo 102 mm (4 inch) đều là kiểu nòng đôi, và các khẩu đội 2 pounder là kiểu tám nòng. Đến năm 1939, các ống phóng ngư lôi được tháo bỏ trên cả bốn con tàu.

Kent chỉ có ít trọng lượng để nâng cấp, và do đó nó không được hiện đại hóa triệt để. Nó giữ lại máy phóng kiểu xoay và cấu trúc thượng tầng phía sau, được bổ sung các vị trí kiểm soát hỏa lực bố trí trên một cấu trúc thanh giằng đặc trưng. Dàn hỏa lực phòng không cũng được cải tiến giống như những tàu chị em, nhưng các khẩu đội 2 pounder và bộ điều khiển của chúng được bố trí phía sau trên một cấu trúc thanh giằng.

Nhà sử học hải quân H. Trevor Lenton ước lượng rằng cho dù đã có những nỗ lực hết mức, không có chiếc nào thực sự nằm trong giới hạn tải trọng của hiệp ước; trọng lượng rẽ nước của lớp Kent khi đầy tải là 14.197 tấn, cho thấy nó có trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn khoảng 10.600 tấn.[2] Lenton nêu lên sự nghi ngờ rằng liệu Bộ Hải quân có từng thông báo cho Chính phủ về tình trạng vượt mức này không, vì với việc chiến tranh đang đến gần, "họ đang chịu đựng những áp lực đòi hỏi về thời gian".

Lớp phụ London

Tập tin:HMS London post 1943.JPGSơ đồ mô tả chiếc HMS London tiêu biểu cho lớp London vào giai đoạn sau năm 1943, với các thiết bị dành cho máy bay được tháo dỡ, và được bổ sung vũ khí phòng không hạng nhẹ cùng thiết bị điện tử. Kiểu dáng của lớp London khác biệt nhiều so với kiểu dáng nguyên thủy của lớp County.

Nhóm thứ hai thuộc lớp London với bốn chiếc Devonshire, London, ShropshireSussex tiếp nối gần gũi với thiết kế của lớp Kent. Bầu chống ngư lôi bên ngoài được loại bỏ, làm giảm bề rộng mạn thuyền 0,6 m (2 ft), và chiều dài của lườn tàu được kéo dài thêm 0,84 m (2 ft 9 in), giúp gia tăng tốc độ thêm được 1,4 km/h (¾ knot). Để đền bù lại cho sự bảo vệ của bầu chống ngư lôi, một lớp vỏ thứ hai bên trong được trang bị để mang lại hiệu quả tương tự. Cầu tàu được bố trí lui về phía sau để giảm thiểu hiệu ứng của tiếng nổ từ tháp pháo B khi bắn qua mạn tàu. Ống khói được nâng cao ngay từ khi chế tạo. Máy bay và máy phóng được trang bị từ năm 1932.

Trên mọi con tàu ngoại trừ chiếc Sussex, bốn khẩu pháo 102 mm (4 inch) được bổ sung trên các bệ nòng đơn đặt ngang với các ống khói. Các khẩu đội 2 pounder nòng đơn được tháo dỡ, và được bổ sung hai khẩu đội súng máy 12,7 mm (0,5 inch) Vickers bốn nòng. Shropshire có được một bộ kiểm soát hỏa lực phòng không. Vào đầu chiến tranh, các khẩu pháo 102 mm (4 inch) bổ sung được tháo dỡ, trong khi các khẩu pháo nguyên thủy được nâng cấp lên bệ Mark XVI nòng đôi. Các khẩu pháo 2 pounder tám nòng dự định khi thiết kế cuối cùng cũng được trang bị.

Từ năm 1938 đến năm 1941, London được trang bị nâng cấp trọn gói. Toàn bộ thiết kế thượng tầng được tháo dỡ, thay bằng những cấu trúc hoàn toàn mới phía trước và phía sau, cùng hai ống khói thẳng đứng hiện đại tương tự như của lớp Crown Colony đương thời. Khối cấu trúc thượng tầng phía trước bao gồm một hầm chứa máy bay lớn mở ra một máy phóng đặt chéo qua lườn tàu giữa các khối cấu trúc thượng tầng. Có một máy phóng ở mỗi bên mạn tàu phía sau ống khói. Các khẩu pháo phòng không 102 mm (4 inch) được thay thế bởi các bệ nòng đôi và được tái bố trí ở cấu trúc thượng tầng phía sau, cùng với các thiết bị ngư lôi một tầng bên dưới. Các khẩu pháo 2 pounder được đặt trên nóc hầm chứa máy bay, và các bệ súng máy Vickers nhiều nòng được bố trí một khẩu đội trên mỗi nóc tháp pháo B và X. Một đai giáp dày 89 mm (3,5 inch), rộng 2,4 m (8 ft), được bổ sung bên cạnh các khoang động cơ, mở rộng lên trên cho đến sàn tàu bọc thép. Tuy nhiên, lườn tàu nguyên thủy được thiết kế cẩn thận để giúp làm giảm trọng lượng nhờ sự sắp xếp ban đầu; nên việc cải biến của London với những trọng lượng nặng được đặt bên trên phía trước và phía sau tàu, đưa đến một lườn tàu chịu áp lực quá tải đáng kể; các vết nứt và các đinh tán bị long ra bắt đầu xuất hiện trên các sàn tàu phía trên. Sàn tàu trên được gia cố, nhưng lại đẩy áp lực tải xuống lườn tàu bên dưới, và các vết nứt lại xuất hiện bên dưới mực nước. Cần đến các biện pháp gia cố bên dưới mực nước, và công việc tái trang bị kéo dài cho đến năm 1943 để sửa chữa tình trạng này.[2][3]

Vào những năm 1930, ba chiếc cuối cùng của lớp London trải qua các cải biến tương tự như với lớp Kent, tháo dỡ tám ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch) và một tháp pháo 203 mm (8 inch) nòng đôi, cho dù London giữ lại nó. Riêng Shropshire giữ lại tháp pháo "X" cũng như các ống phóng ngư lôi và được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Australia vào đầu năm 1943 để thay thế chiếc Canberra.

Lớp phụ Norfolk

Hai chiếc thuộc lớp County sau cùng NorfolkDorsetshire hình thành nên lớp Norfolk. Việc đặt hàng thêm hai chiếc nữa Northumberland và Surrey cho những chương trình chế tạo của các tài khóa 1927-19281928-1929 bị hoãn lại, và không bao giờ được đặt lườn. Đó là do việc Tổng tuyển cử năm 1929 đưa đến một Chính phủ thuộc phe thiểu số của Đảng Lao động dưới quyền Thủ tướng Ramsay Macdonald, đã hủy bỏ kế hoạch chế tạo các con tàu như là một biện pháp kinh tế, cũng như là một hành động thiện chí cho Hội nghị Hải quân London sắp diễn ra.[3] Chúng là sự lặp lại những thiết kế của lớp London với những thay đổi nhỏ.

Cầu tàu và cấu trúc thượng tầng phía sau được hạ thấp. Các tháp pháo 203 mm (8 inch) được trang bị kiểu Mark II với dự định làm giảm trọng lượng, nhưng cuối cùng lại nặng hơn so với kiểu Mark I![3] Các khẩu đội 102 mm (4 inch) được tái bố trí ra phía trước để không che khuất máy phóng và máy bay, vốn được gắn thấp hơn so với những chiếc dẫn trước. Trong năm 1937, các khẩu pháo 4 inch được thay thế bằng kiểu nòng đôi, các khẩu đội 2 pounder tám nòng được bổ sung phía sau cấu trúc thượng tầng và các khẩu nòng đơn phía trước được tháo dỡ. Các cải tiến này đã đẩy trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn vượt quá 10.400 tấn.[2]

Trong chiến tranh, các dàn phóng rocket ban đầu được bổ sung, nhưng sau đó được tháo dỡ cùng với các khẩu súng máy Vickers. Chúng được thay thế bằng kiểu pháo phòng không Oerlikon 20 mm hữu ích hơn. Một bộ điều khiển hỏa lực dành cho các khẩu pháo 102 mm (4 inch) được bổ sung, và các cột ăn-ten được thay thế bằng kiểu ba chân để chịu đựng trọng lượng nặng thêm của các hệ thống điện tử bổ sung. Một đợt tái trang bị năm 1944 dành cho Norfolk, lúc đó là chiếc duy nhất còn lại của lớp phụ này, tháo dỡ máy bay, máy phóng và tháp pháo X. Chỗ trống có được dành để trang bị bốn khẩu đội 2 pounder bốn nòng cùng các bộ kiểm soát hỏa lực của chúng, và bốn khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm. Một cụm cấu trúc thượng tầng bổ sung phía sau để mang bộ điều khiển hỏa lực phòng không, được trang bị radar Kiểu 283, để cuối cùng cho phép dàn pháo chính có thể phục vụ trong vai trò phòng không được dự định từ đầu.

So sánh các lớp phụ

So sánh các lớp
Số lượng
chế tạo / kế hoạch
Đặt hàngDài
(ft)
Rộng
(ft)
Tốc độ
(đầy tải, knot)
Choáng nước
(tiêu chuẩn, tấn)
Pháo chínhĐai giáp
(inch)
Ngư lôiThủy thủ đoàn
Kent7 / 719246306831½10.5708 × 8 inch4,5*8685
London4 / 419251926632¾6632¼9.8308 × 8 inch3,5**8700
Norfolk2 / 419261927632¾6632¼10.3008 × 8 inch8725
York2 / 5192619285755831½8.2506 × 8 inch36623
*: Sau khi tái trang bị 1935, không bao gồm Australia và Canberra**: Sau khi tái trang bị 1938, riêng cho London